Làng Đô Hai (xã An Lão, huyện Bình Lục, Tỉnh Hà Nam) có tới 90% dân số theo đạo Thiên chúa và 100% theo nghề làm sừng lúc nông nhàn.
Tìm lại trong trí nhớ khá lâu, ông Lê Ngọc Nuôi- Bí thư chi bộ làng mới giới thiệu được cho chúng tôi cụ Nguyễn Văn Ba - một người tỉ mẩn với nghề, kèm theo lời phân trần: "Bây giờ, các cụ khéo nổi tiếng già hết cả rồi, đến nỗi tay run, mắt mờ trí nhớ kém không thể trò chuyện nổi. Chỉ có cụ Nguyễn Văn Ba là hơn hẳn thôi". Giữa những tiếng cưa, đục, mài... chúng tôi được tiếp chuyện với một cụ già 78 tuổi nước da hồng hào, dáng vẻ nhanh nhẹn và khoẻ mạnh. Đã 65 năm làm sừng mỹ nghệ cụ Nguyễn Văn Ba được tiếng là tinh tế, như vậy đủ thấy sự quý giá của mỗi sản phẩm cụ làm ra. Thuở hàn vi cha của cụ dạy cụ từ cách tiếp cận mẫu mã đến những thao tác dù nhỏ nhất. Cụ tâm sự "Ngày ấy con cái không cãi cha mẹ. Chúng tôi đã quen với việc xếp đặt nên học nghề một cách tự nhiên".
Buổi sơ khai của sừng mỹ nghệ chỉ là lược chải tóc, bàn chải đánh răng, tóm lại là những vật dụng rất nhỏ. Cũng vì nhu cầu ngày ấy không thể cao hơn. Rồi hợp tác xã sừng ra đời là nơi gửi thân những người theo nghề. Trước năm 1974, mỗi khi đạn bom giội xuống thì hợp tác xã sơ tán, yên ổn lại tụ về sản xuất. Những năm tháng đó, ai làm sừng thì yên tâm hoàn toàn vì số tiền mỗi người có được hàng tháng thừa sức gõ được thịt, cá! Nhà nước "bao tiêu", làng nghề được lợi như thế. Đang hàn huyên, cụ Ba như bị thực tế đánh thức, nhìn sang ông Bí thư chi bộ, chau mày nói: "Con trai nó đang giục tôi lên Hà Nội ở cùng cho vui. Nhưng vui gì, chật chội tôi không quen, với lại tôi còn lao động được".
Một tháng cụ Ba cũng chỉ làm một vài sản phẩm cho khách quen. Đấy là những bộ tam đa, những con giống có kích thước lớn, đôi khi cụ làm theo mẫu khách đưa. Sản phẩm cụ làm là những "sản phẩm tinh" nên người làng rất nể và khách hàng rất nhớ. Mặc dù ngày nay đã được sự trợ giúp của máy móc, nhưng có những sản phẩm cụ vẫn mất đến hàng tuần, chẳng thế cả làng gọi cụ là Nghệ nhân. Chỉ nói riêng công đoạn đánh bóng, dẫu không còn dùng đến lá chịu, lá ngái như ngày xưa nhưng sau 2-4 công (1-2 ngày) mới xong. Vậy là "người làm hàng loại một" chỉ còn lại một.
Buổi sơ khai của sừng mỹ nghệ chỉ là lược chải tóc, bàn chải đánh răng, tóm lại là những vật dụng rất nhỏ. Cũng vì nhu cầu ngày ấy không thể cao hơn. Rồi hợp tác xã sừng ra đời là nơi gửi thân những người theo nghề. Trước năm 1974, mỗi khi đạn bom giội xuống thì hợp tác xã sơ tán, yên ổn lại tụ về sản xuất. Những năm tháng đó, ai làm sừng thì yên tâm hoàn toàn vì số tiền mỗi người có được hàng tháng thừa sức gõ được thịt, cá! Nhà nước "bao tiêu", làng nghề được lợi như thế. Đang hàn huyên, cụ Ba như bị thực tế đánh thức, nhìn sang ông Bí thư chi bộ, chau mày nói: "Con trai nó đang giục tôi lên Hà Nội ở cùng cho vui. Nhưng vui gì, chật chội tôi không quen, với lại tôi còn lao động được".
Một tháng cụ Ba cũng chỉ làm một vài sản phẩm cho khách quen. Đấy là những bộ tam đa, những con giống có kích thước lớn, đôi khi cụ làm theo mẫu khách đưa. Sản phẩm cụ làm là những "sản phẩm tinh" nên người làng rất nể và khách hàng rất nhớ. Mặc dù ngày nay đã được sự trợ giúp của máy móc, nhưng có những sản phẩm cụ vẫn mất đến hàng tuần, chẳng thế cả làng gọi cụ là Nghệ nhân. Chỉ nói riêng công đoạn đánh bóng, dẫu không còn dùng đến lá chịu, lá ngái như ngày xưa nhưng sau 2-4 công (1-2 ngày) mới xong. Vậy là "người làm hàng loại một" chỉ còn lại một.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét